thử nh́n lại ư nghĩa Exodus của Mayflower (1607) và Exodus của Boat People (1975)

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

Nhớ theo dơi Diễn Đàn Người Việt Quốc Gia trên hệ thống Đài Việt Nam Hải Ngoại vào lúc 7:00 PM đến 8:00 PM vào mỗi chiều Chúa Nhật và Diễn Đàn Công Dân vào lúc 10:30 PM dến 11:00 PM mỗi tối thứ hai.

DIỄN ĐÀN NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA

Ngừoi Quốc Gia là những người đặt tổ quốc lên bản vị tối cao

Tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi sự vật, kể cả tôn giáo, đảng phái, và cá chính bản thân ḿnh v.v..

Trích VN Tự Điển của Đào Duy Anh Nationalist Vietnamese Forum

Trước trang sử Exodus 3.000 năm của dân Do Thái, thử nh́n lại ư nghĩa Exodus của Mayflower (1607) và Exodus của Boat People (1975) Nguyễn Anh Tuấn, The Vietnamese American Political Study Group in America., Oct 01, 2004

Kể từ ngày 30-4-1975 cho đến hôm nay đă gần 30 năm. Tôi vẫn c̣n nhớ những ngày ấy, ngày tôi dắt díu vợ và đứa con thơ dại xuống tàu HQ 402, bỏ Saigon ra đi tỵ nạn cộng sản. Trên sông Nhà Bè tôi đứng trên boong tàu nh́n thành phố thân yêu trong cơn hấp hối mà đớn đau nước mắt tuôn rơi. Nh́n những đám khói bốc lên trên thành phố tội t́nh, tôi có cảm giác Saigon đang run rẩy trong sợ hăi kinh hoàng. Trước nỗi uất nghẹn và tủi nhục của Saigon, tôi bỗng ư thức được tất cả sự bé nhỏ trong thân phận của người dân Việt trước bom đạn của những kẻ chiếm đóng. Họ quá dữ dằn và thô bạo – thô bạo đến nỗi man rợ mà chẳng ai làm ǵ được họ. Thế là độc tài đă chiến thắng tự do!

Tất cả thế giới im lặng để cho cái “tiền đồn của thế giới tự do” chết trong ngậm ngùi, chết trong sợ hăi và cô đơn! Tôi đă bỏ nước, bỏ Saigon ra đi từ ngày đó, mang theo trang sử u ám và buồn bă của một quốc gia tự do dân chủ vừa mới phôi thai đă bị làn sóng vô thần và duy vật vây hăm rồi d́m chết! Trong âm thầm và uất nghẹn, tôi đă nói với Saigon lời từ giă và hứùa một ngày sẽ trở về như dân Do Thái lúc lưu đày, hứa trở về để xây dựng đền thờ Jesusalem của họ. Khát vọng tự do và khát vọng chân lư xô đẩy tôi và đoàn người tỵ nạn cộng sản vô thần ra biển Thái B́nh Dương để mở đầu một trang sử mới. Đó là HÀNH TR̀NH T̀M TỰ DO và LẼ SỐNG của bao triệu người Việt Nam. Từ đó cả một bầu trời văn minh của nhân loại đă mở ra để cho đoàn người tỵ nạn bước vào.

Đứng trước những ức chế, đàn áp và hành hạ con người nắm giữ quyền thế và quyền lực chính trị quốc gia trên ḍng lịch sử mấy ngàn năm của nhân loại, có lần Jean Jacques Rousseau đă than thở: “Con người sinh ra đều tự do và b́nh đẳng, nhưng khắp nơi con người luôn luôn phải sống trong xiềng xích nô lệ!” Nhưng cũng trong một ḍng lịch sử từ gần 3,000 năm qua, kể từ ngày Moses dẫn dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, băng qua Biển Đỏ, tức Hồng Hải, rồi băng qua sa mạc 40 năm để t́m về Đất Hứa (promised land) ở Canaan- những cuộc tranh đấu cho quyền sống, quyền tự nhiên (natural rights) và quyền tư hữu cũng luôn luôn diễn ra khốc liệt và bền bỉ trong suốt ḍng lịch sử. Tại Hoa Kỳ. có lần một học sinh đă nói: “Cho tôi tự do hay cho tôi cái chết!” (Give me liberty or give me death). Sự khao khát tự do thật là bức thiết đối với con người!

Theo Leroy Curry, “Kể từ ngày đầu tiên tiếng nói của tự do đă vang lên trong rừng vắng tại Hoa Kỳ, chúng ta đă từng thuyết giảng về t́nh anh em; và chúng ta đă từng được dạy dỗ rằng phục vụ là nhiệm vụ cao cả; bởi v́ đó là một lư tưởng của Hoa Kỳ và cái lư tưởng đó đă đem đi khắp nơi trên thế giới. Chúng ta đă có 6,000 năm lich sử được ghi lại - Đó là một thế giới cũ (Old World) và thế giới đó đă chẳng bao giờ biết đến ḥa b́nh. Sự thật này đưa chúng ta đến chủ điểm là phải liên tục có một bảo đảm về quyền uy chính trị và phải dùng quyền uy này để tạo những lư tưởng cho ḥa b́nh của thế giới. Một lư tưởng của Hoa Kỳ mà phần lớn người dân đă được thuyết minh ngay từ những ngày quốc gia này mới được khai sinh ra” (Leroy Curry,p. 179).

Tôi không hiểu có người Mỹ nào đă nh́n cuộc hành tŕnh t́m tự do của người Hoa Kỳ từ gần 400 năm qua là exodus thứ hai của lịch sử nhân loại chưa? Riêng tôi, sau gần 30 năm t́m kiếm những sự thật của lịch sử nhân loại, đặc biệt là thánh sử và lịch sử chính trị và ngoại giao Hoa Kỳ, kể từ ngày chiếc Mayflower và Speedwell đến Tân Thế Giới (New World) vào 1607. Tôi bỗng nhận ra trong suốt gần 3,000 năm lịch sử đă qua, nhân loại có 3 chuyến exodus:

1- Chuyến exodus đầu tiên la ụhành tŕnh t́m tự do của dân Do Thái, do Moses với sự dẫn đường của Thiên Chúa để đưa dắt dân Người ra khỏi Ai Cập, băng qua Biển Đỏ để đi trong sa mạc 40 năm để về Đất Hứa.

2- Chuyến exodus thứ hai thuộc nhóm người Puritan và Pilgrim ở Anh đă vượt Đại Tây Dương để vào Tân Thế Giới năm 1607 và đặt những viên đá đầu tiên để xây nên cái mà họ nói là một nền văn minh mới (new civilization), xây nên một quốc gia và xă hội Hoa Kỳ mà người ta thường gọi là Tân Thế Giới.

3- Chuyến exodus thứ ba thuộc nhóm người Việt Nam. Kể từ 30-4-1975, có gần 2 triệu người Việt Nam đă băng qua Thái B́nh Dương để tứ tán trên khắp thế giới. Chính hàng ngũ Boat People và Walk People này đă làm rung chuyển lương tâm của Thế giời vào cuối Thế kỷ XX.

Nhưng ư nghĩa thâm sâu của những chuyến vượt biển, vượt biên nằm ở chỗ nào? Ngày nay nh́n vào cả 3 chuyến Exodus, chúng ta nhận thấy cả 3 chuyến vượt biển: một băng qua Biển Đỏ, hai là băng qua Đại Tây Dương, và ba là băng qua Thái B́nh Dương đều là hành tŕnh đi t́m tự do và đi t́m đất sống của những kẻ đau khổ. Họ thường bị sống trong ức chế, trong đàn áp, trong kỳ thị và trong xiềng xích nô lệ. Như vậy hai chữ tự do không thể mang một ư nghĩa hời hợt và tầm thường khi con người quyết tâm liều chết ra đi! V́ thế đă đến lúc chúng ta cùng nhau duyệt xét lại ư nghĩa thâm sâu nơi ba cuộc hành tŕnh đi t́m tự do trong suốt gần 3,000 năm của lịch sử nhân loại.

Bởi v́ cả ba cuộc hành tŕnh đi t́m tự do đó đều đă thể hiện trọn vẹn niềm khao khát chân chính nhất của con người và nhân loại. Và nếu cứu cánh tối hậu của các cuộc t́m kiếm của con người là hạnh phúc của họ, th́ xă hội và quốc gia không thể quay lưng với niềm khát vọng chân chính của con người. Quốc gia và xă hội được xây dựng nên bởi con người, của con người và cho con người. Để có đuơợc một xă hội lư tưởng như thế, quốc gia và xă hội phải tôn trọng tự do của con người (human liberty), và công lư của con người (human justice). Nhưng tự do của con người là ǵ? Nhân quyền cần thiết như thế nào cho đời sống cá thể và tập thể? Làm sao để xây dựng công lư? Giữa tôn giáo và chính trị liên quan với nhau như thế nào? Và quan trọng hơn hết là cả ba chuyến Exodus sẽ cho con người những ư nghĩa và giá trị lịch sử ǵ? Tại sao lịch sử con ngưởi lại chỉ có máu, nước mắt, sự đau khổ và sự chết? Làm sao để thay đổi những trang sử đen tối đó? Nếu hành tŕnh t́m tự do của đoàn người vượt biển, vượt biên của người Việt Nam đă 30 năm, những con người đó học được bài học ǵ nơi các nền văn minh trên thế giới?

Ư NGHĨA CỦA CÁC CHUYẾN EXODUS

Nếu văn minh của Thiên Chúa Giáo (Christian civilization) bắt nguồn từ Cựu Ước và Tân Ước th́ văn minh đó có những điểm ǵ khác với văn minh Tam Giáo: Lăo – Phật – Khổng của Đông phương?

Sự xuất hiện của Moses trong Cựu Ước đă nổi bật trong hành tŕnh t́m về Đất Hứa. Chính trên hành tŕnh này Chúa đă làm tất cả phép lạ để cho con người thấy quyền năng và thiên ư của Thiên Chúa. Biển đă mở ra cho đoàn người Do Thái bước qua, trong rừng vắng và sa mạc. Những đám mây và ánh sáng chỉ đường đă hiện lên để giúp cho đoàn người tiến bước đi về Đất Mới mà Thiên Chúa đă ḥa với Abraham, tức tổ phụ của họ. Bánh Manna đă từ trời rơi xuống, và nước trong mát đă chảy ra từ tảng đá để nuôi sống đoàn người đi trong sa mạc 40 năm.

Từ ngọn núi Sinai, Thiên Chúa đă trao cho Moses 10 Điều Răn của Thiên Chúa (Ten Commandements) như một Giao Ước giữa dân được chọn và Thiên Chúa. Bốn (4) Đều Răn đầu tiên Thiên Chúa buộc con người phải hướng thượng để thờ lạy Thiên Chúa, và Sáu (6) Điều Răn c̣n lại là đặt ra mối tương quan giữa Người với Người. Đạo lư của người đối với trời gọi là Thiên Đạo, và đạo lư giữa người và người gọi là Nhân Đạo. Nhưng khi Moses từ núi Sinai đi xuống để trao cho dân Do Thái giao ước giữa Thiên Chúa và dân được chọn th́ đoàn người đang đúc ḅ vàng để thờ lạy và tung hô. Moses đă giận dữ quăng tấm bia đá có 10 Điều Răn của Thiên Chúa xuống vỡ ra tan tành. Moses đă cảnh cáo đoàn người đừng phản bội Thiên Chúa của họ và đừng tôn thờ của cải vật chất của thế gian. Thiên Chúa đă không cho Moses vào Đất Hứa nên ông phải dặn Joshua, người kế vị Moses rằng: “Ta đă quá già và sẽ nằm xuống tại đây, nhưng c̣n ngươi – ngươi hăy nói với giống dân này rằng: hăy thanh tẩy (purify) và hăy giữ lấy những lời Giao Ước, hay Lề Luật của Thiên Chúa. Rồi đây chúng sẽ được sống trong tự do và hạnh phúc trên Đất Hứa; c̣n bây giờ chúng vẫn chỉ là những tên nô lệ!” Theo ngôn ngữ thông thường của các ḍng đạo lư tại Đông phương th́ Thanh tẩy (purify) mang ư nghĩa của tu tâm dưỡng tánh.

Vào thời Tân Ước, chính Chúa Jesus để nói với các tông đồ của Chúa rằng: “Ta đến đây không phải để xóa bỏ các lề luật cũ, tức các giao ước cũ mà ta chỉ tiếp nối và hoàn thiện nó mà thôi. Giao ước của ta thật đơn giản: “các ngươi hăy yêu Thiên Chúa của các ngươi hết linh hồn, hết trái tim, hết sức lực các ngươi và hăy yêu anh em như chính ḿnh.” Đó là Giao Ước giữa Thiên Chúa đối với tất cả nhân loại; trong khi ấy Cựu Ước chỉ là một Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái mà thôi.

NHỮNG TIẾN HÓA CỦA 3,000 NĂM LICH SỬ VÀ THÀNH QUẢ CỦA MAYFLOWER.

Trong cuốn The Roots of American Order, xuất bản năm 2003 tại Wilmington DE, giáo sư Russel Kirk cho rằng: “Trật tự của xă hội Hoa Kỳ và toàn thể thế giới Tây Phương là sản phẩm tiến hóa của gần 3,000 năm lịch sử.” Kirk nhận thấy trật tự của xă hội Hoa Kỳ là kết tinh của kinh nghiệm lịch sử phát xuất ra từ Athens, Roma và London. Như vậy tất cả những tinh hoa của bao ngàn năm văn minh đă được đoàn người băng qua Đại Tây Dương bằng chiếc Mayflower chuyên chở tới một vùng Đất Mới với tất cả những tư tưởng mới, những định hướng mới đế xây dựng nên một quốc gia mới, và một xă hội mới dưới ánh sáng chỉ đường của một nền văn minh mới. Đó là TẤT CẢ Ư NGHĨA SÂU THẲM NHẤT CỦA CHUYẾN EXODUS THỨ HAI TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI.

1- Tinh hoa đầu tiên mà Mayflower đón nhận là Jesusalem, tức những lời Giao Ước mà Thiên Chúa đă trao cho Moses trong chuyến exodus đầu tiên từ Ai Cập vượt biển về miền Đất Hứa từ gần 3,000 năm qua, những người Pilgrim và Puritan đă nhận được từ chiếc nôi văn minh của Cựu Ước mà ra.

2- Tinh hoa thứ hai mà Mayflower thừa hưởng là tinh thần Cộng ḥa và Dân chủ của Athens, và Roma cùng với những bộ luật của Do Thái và La Mă. V́ vậy tất cả triết lư và luật pháp của Hy lạp và La mă sau này trở thành gia sản cao quư cho hệ thống chính trị và luật pháp của Hoa Kỳ.

3- Tinh hoa thứ ba đến từ London, Mayflower đă thừa hưởng một gia sản tinh thần lớn lao của Tuyên Ngôn Tự Do, tức Magna Carta (1215) là tiếng vọng sâu xa về khát vọng tự do dân chủ của những người dân thường dưới chế độ quân chủ. Đấy là lúc chính quyền được định nghĩa như một tổ chức được lập nên bởi một thỏa ước giữa quyền tối thượng của quốc gia và những kẻ nắm quyền cai trị. Tuyên ngôn này lần đầu tiên đă đặt vương quyền của vua dưới ánh sáng chỉ đường của luật pháp quốc gia. Đây là giai đoạn phôi thai của nền dân chủ pháp trị (legal democracy) sau này.

Kết quả, Nghị Viện Anh đă ra đời, mà ở đó quyền tối thượng của quốc gia, tức là quyền làm luật thuộc về Hạ Nghị Viện (House of Common), và từ đó những quyền tự do căn bản của toàn dân đă được bảo đảm để chống lại những quyền hành độc đoán của các ông hoàng bà chúa.



-- (|||||A|||@LLL.com), November 12, 2004

Answers

Response to thử nhìn lại Ă½ nghĩa Exodus của Mayflower (1607) vĂ  Exodus của Boat People (1975)

Phần 2 :

4- Tinh hoa thứ tư: Tiếp theo Magna Carta, vào năm 1628 Quyền Thỉnh Nguyện (The Petition of Rights) lại được công bố với những quyền tự do dân sự của người dân (Civil Liberties). Vào năm 1689 th́ Dự luật Nhân Quyền, tức Bill of Rights đă được Hạ Nghị Viện thông qua để bảo đảm cho tự do báo chí, tự do ngôn luận và tự do hội họp của mọi công dân.

V́ thế Mayflower đă hưởng tất cả gia sản đó, và trong chiến tranh giành được độc lập từ tay đế quốc Anh, những người quốc phụ (Founding Fathers) của Hoa Kỳ đă nắm trong tay những vũ khí cách mạng vô vùng lợi hại để hoàn thành cuộc cách mạng giành độc lập. Những tư tưởng mạnh mẽ đó chính là Magna Carta, The Petition of Rights và Bill of Rights. Sau 70 năm khi Tân Quốc Gia Hoa Kỳ được thành lập, có lần Tổng Thống Abraham Lincoln đă nói: “Quốc gia này dưới ánh sáng chỉ đường của Thiên Chúa đă sản sinh ra một nền tự do, để từ đó thành lập nên một chính quyền của dân, do dân và v́ dân. Quốc gia này sẽ không bao giờ bị tan ră trên mặt đất này” (Erik Braun and Robin Getzen p. 146). V́ thế đối với tất cả người Hoa kỳ, niềm tin tưởng vào Thiên Chúa hay Đấng Tạo Hóa (Creator or God) của họ là một niềm tin vô biên và mănh liệt (In God We Trust).

Từ tinh thần HƯỚNG THƯỢNG đó với tất cả tâm hồn, tất cả trí tuệ và tất cả sức lực của con người, nhân loại đă thực hiện và chu toàn được một nửa Giao Ước giữa con người và Thiên Chúa hay Đấng Tạo Hóa của họ. Điều quan trọng thứ nh́ trong Cựu Ước và Tân Ước chính là nền móng TƯƠNG QUAN GIỮA CON NGƯỜI và CON NGƯỜI. Mối tương quan này đặt trên nền tảng nào? Đối với Tân Ước th́ Chúa Jesus đă nói nhiều lần: “Hăy yêu thương anh em họ như chính ḿnh. Khi con biết yêu thương lẫn nhau th́ nửa sau của Giao Ước cũng được hoàn tất giữa Con Người và Thiên Chúa.”

Tuy nhiên Giao Ước này không chỉ giới hạn ở mức độ cá nhân đối với cá nhân, cá nhân đối với gia đ́nh, mà quan trọng hơn hêÙt là lời Giao Ước của một Dân tộc và một Quốc gia đối với Toàn Dân đang sống dưới lá cờ của quốc gia đó. Đây là mục tiêu tối hậu của những Giao Ước giữa Thiên Chúa và các Quốc gia và các Dân tộc trên toàn thế giới. Đặc biệt là những ai đứng đầu và lănh đạo con thuyền quốc gia đó, họ phải là biểu tượng của quốc gia và đang nắm trong tay sinh mệnh của bao triệu con người. Họ phải giữ lấy Giao Ước và thực hiện Giao Ước đó nếu họ muốn được ḷng người và được ḷng Trời. V́ quá ưu tư đến mọi người dân trong các quốc gia nên Chúa Jesus từ 2,000 năm qua đă phán rằng: “Ai trong các ngươi muốn đứng đầu các ngươi th́ hăy lo lắng cho các ngươi. Ai trong các ngươi muốn dẫn đạo các ngươi, th́ hăy phục vụ các ngươi; cũng như Ta xuống dưới trần gian này để phục vụ con người, chứ không phải đến để được phục vụ!”

Thật quá rơ ràng, nếu Cựu Ước và Tân Ước rút cục chỉ c̣n hai điều: HƯỚNG THƯỢNG và HƯỚNG THA - hướng đến Thiên Chúa, Trời Đất hay Đấng Tạo Hóa và hướng đến Tha Nhân. Giao Ước giữa Thiên Chúa và Con Người cực kỳ đơn giản và rơ ràng, nhưng trong suốt bao ngàn năm lịch sử con người chỉ thật đau khổ, đầy nước mắt và sự chết. Những trang sử này do các quốc gia tạo thành. Đây là những trang sử của chính những cá nhân con người không tuân lời Chúa viết ra. V́ thế tất cả những kẻ nào đứng đầu lănh đạo các quốc gia đó phải chịu trách nhiệm trực tiếp về sự đau khổ của con người nói chung trong các quốc gia đó.

Nhưng lạ thay Hoa Kỳ lại là một quốc gia đă giữ được, đă và đang thực hành được lời Giao Ước trong Thánh sử – đối với Thiên Chúa và đối với cả con người Quốc gia này đă Hướng Thượng và Hướng Tha đúng như Cựu Ước và Tân Ước đă rao giảng từ gần 3,000 năm qua. V́ thế, trên thực tế của lịch sử Hoa Kỳ là một mảnh đất tiêu biểu cho chuyến Exodus thứ hai của nhân loại. Và Mayflower đă gieo trồng những hạt giống tinh hoa nhất của lịch sử văn minh của Tây Phương và Trung Đông đă có từ 3,000 năm qua. Từ trong rừng vắng hoang vu, tiếng vọng của Mayflower Compact vang lên bản t́nh ca của Tự do: “Với ánh hào quang của Thiên Chúa, và với một niềm tin thúc đẩy lên đường để thành lập nên một thuộc địa đầu tiên tại Virginia; v́ lẽ đó tất cả chúng ta hiện diện nơi đây, tất cả đều thành khẩn trước sự hiện hữu của Thiên Chúa, có trong tay Giao Ước (covenant) chúng ta quần tụ bên nhau thành một khối keo sơn chúng ta làm nên những luật công chính và luật b́nh đẳng... v́ hạnh phúc chung của cộng đồng – mà trên đó tất cả chúng ta sẽ dâng hiến và tuân phục.” (Erik Braun and Robin Getzen, p. 9) Trên tinh thần của Mayflower Compact, năm 1630 John Winthrop đă nhắc nhở đoàn ly hương rằng: “Chúng ta là một đoàn người tự xưng là tín hữu của Chúa Jesus để thể hiện đức tin cao cả ấy. Chúng ta phải đối xử với nhau trong t́nh anh em ... chúng ta tạo dựng hạnh phúc cho chính ḿnh và tạo dựng hạnh phúc cho người khác nữa, vui sướng có nhau, khóc lóc cũng chia sớt cho nhau, làm việc cực khổ cùng kề vai nhau, và đau khổ cũng cùng nhau nắm chặt tay nhau!”

Phải chăng Tân Thế Giới đă được trời chọn để gieo trồng những hạt giống kỳ diệu của Giao Ước giữa Người với Người, gieo trồng những tư tưởng tự do, tư tưởng b́nh đẳng, tư tưởng đạo đức chính trị, tư tưởng công lư cho xă hội quá tăm tối và đau khổ của con người? Bởi v́ những tư tưởng đó đă đem lại những lợi ích phi thường cho lẽ sống và hạnh phúc của con người nói chung, nhất là những kẻ thiếu may mắn trong cộng đồng nhân loại (Ideas for the benefit of the ‘lower classes’ of mankind). Nhờ tư tưởng của Mayflower và Pilgrim mà thời đại hoàng kim của tự do tôn giáo đă bùng dậy như một đóa hoa của niềm tin tôn giáo mănh liệt trong đời sống con người. Đây là đoàn người bị áp bức mănh liệt, kỳ thị tôn giáo tại quê hương ḿnh gồm 56 người lớn, 31 trẻ em và 14 thợ thuyền và giúp việc trên chiếc tàu định mệnh Mayflower ra khơi t́m tự do. Mayflower Compact đă đưa ra một Giao Ước như một căn bản pháp lư tạm thời để thiết lập trật tự cộng đồng và nó đă làm thành một tiền lệ cho việc thành lập những chính quyền dân chủ trên căn bản của một khế ước thành văn với sự đồng ư và chấp nhận của tất cả người dân trong Tân Thế Giới.

Nền dân chủ pháp trị (legal democracy) của Hoa Kỳ đă thành công rực rỡ mấy thế kỷ nay bắt nguồn từ niềm tin tôn giáo mănh liệt nhất, sâu xa nhất và minh triết nhất của những người Puritan, Pilgrim, và sau đó là George Washington, Thomas Jefferson, James Madison, Alexander Hamilton, John Jay hay Abraham Lincoln – họ đều là các bậc Quốc phụ của Hoa Kỳ. Từ ánh sáng chỉ đường của Cựu Uớc, Tân Ước và giá trị tiến hóa của 3,000 năm lich sử văn minh Tây phương, những kẻ đau khổ v́ mất tự do tôn giáo, và tự do chính trị, họ đă vận dụng được tất cả sức mạnh của tư tưởng trong sáng nhất và tinh hoa nhất để viết lên Tuyên Ngôn Độc Lập (1776) và viết lên bản Hiến pháp tuyệt vời (1787) như một thứ Thánh kinh của chính trị dân chủ (democratic political bible). Tất cả nền móng và trật tự của quốc gia và xă hội dù được xây trên những viên đá mầu nhiệm của ư thức tự do, ư thức đạo đức, ư thức b́nh đẳng và ư thức công lư. Đây là một cuộc cách mạng vĩ đại nhất, minh triết nhất trong lịch sử nhân loại. Ở đó đời sống của con người, những quyền tự nhiên của con người, và quyền t́m kiếm hạnh phúc của con người, cũng như quyền tư hữu của họ là chủ đề chính của Tuyên Ngôn Độc Lập, và là chủ đề chính của Hiến Pháp Hoa Kỳ.

Biết bao quốc gia đă sao chép bản Hiến Pháp đầu tiên trong lịch sử nhân loại này, nhưng ở đó hiến pháp họ sao chép chỉ là một tṛ mỵ dân của các nhà lănh đạo các quốc gia sao chép để che dấu biết bao tham vọng thấp hèn của giới cầm quyền độc tài. Người xưa có nói: Nước có luật pháp hay mà nước loạn là tại sao – tại v́ người cầm quyền độc tài đă đứng trên cả luật pháp.

ĐÂU LÀ Ư NGHĨA SÂU THẲM CỦA EXODUS THỨ BA CỦA NHỮNG THUYỀN NHÂN VƯỢT QUA THÁI B̀NH DƯƠNG?

Hiển nhiên v́ không thể sống dưới gông cùm xiềng xích của những kẻ vô sản độc tài coi tất cả mọi người dân đều là “kẻ thù giai cấp”, coi tôn giáo là thuốc phiện, và coi bạo lực và dối trá của chính trị cách mạng là lẽ sống của họ – bao triệu người Việt Nam đă lũ lượt liều chết ra đi trên những chiếc thuyền con mong manh để lao vào biển Thái B́nh Dương đi t́m tự do và t́m đất sống. Đói khát, khổ đau, quằn quại dưới những đôi tay man rợ của hải tặc và cả trăm ngàn cái chết hăi hùng chờ chực sẵn trên biển cả chẳng ngăn dược khát vọng t́m quyền được sống như những con người đích thực trong một nước tự do. Hành tŕnh t́m tự do này quá đắt giá bằng đổi mạng sống và quá bi thương bằng con đường vô định. Trên Biển Đỏ của chuyến Exodus thứ nhất, biển đă mở ra, nhưng trên Thái B́nh Dương chuyến Exodus thứ ba, biển vẫn khép lại. Đoàn người không có ánh sáng và những đám mây của Thiên Chúa dẫn đường. Họ cũng chẳng có bánh Manna để ăn và cũng chẳng có nước trong mát chảy ra từ tảng đá mà uống. Điều thiếu sót đáng nói nhất là họ không có Moses để dẫn đắt và tạo cho những lề luật của Thượng Đế để họ khỏi phải ṃ mẫm trong đêm tối cuộc đời. Tự do là khát vọng của tất cả nhân loại, nhưng có mấy ai hiểu được ư nghĩa sâu thẳm của hai chữ TỰ DO trong lich sử nhân loại.



-- (|||||A|||@LLL.com), November 12, 2004.


Response to thử nhìn lại Ă½ nghĩa Exodus của Mayflower (1607) vĂ  Exodus của Boat People (1975)

Mặc dù cả ba chuyến Exodus đều thể hiện trọn vẹn khát vọng TỰ DO CỦA CON NGƯỜI. Nhưng quan niệm hay ư thức tự do của Exodus thứ nhất, tức của dân Do Thái, và Exodus thứ hai của Mayflower đều giống nhau. Cả hai đều rất chú trọng tới việc tu tâm dưỡng tánh (purify) và cả hai đều giữ lề luật của Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái, và giữa Thiên Chúa và Nhân loại, tức HƯỚNG THƯỢNG và HƯỚNG THA. Đó là ĐẠO LƯ TỐI THƯỢNG của đời sống mà tất cả con người phải vươn tới, nếu con người muốn sống tự do và hạnh phúc bên nhau. Tất cả mọi xây dựng vững chắc và lâu dài phải có đạo lư, thứ đạo lư của Trời và thứ đạo lư của Người. Đ̣i hỏi này không có tính cách ngoại lệ trong Exodus thứ ba trong niềm khao khát tự do trong sinh hoạt chính trị và trong tôn thờ các tôn giáo. Hai bài học trọng đại của những chuyến Exodus, thứ nhất và thứ hai quá rơ ràng, quá hiển nhiên trong lịch sử nhân loại.

Nhiệm vụ của tất cả mọi tôn giáo là thắp lên ngọn đèn giữa những đêm tăm tối của lịch sử quốc gia, chủng tộc để dẫn đưa con người về với Trời Đất, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, hay Thượng Đế, và nhất là dẫn dắt con người về lại với lương tâm trong sáng ngàn đời của họ (enlightened conscience), rồi họ sẽ được sống trong tự do và hạnh phúc như Moses đă hứa với Do Thái và như Mayflower Compact đă đưa đến cho gần 300 triệu người dân Hoa Kỳ, trong đó có gần 2 triệu người vượt biển của Exodus thứ ba, trong đó cả triệu người Việt Nam bất hạnh đă bỏ ḿnh trên biển cả mênh mông. Số c̣n lại đă có được Tự do và Hạnh phúc thực sự.

Trong đời sống tỵ nạn cộng sản, con người vẫn nói đến đạo lư và cho rằng: thuận thiên th́ giả tồn; nghịch thiên th́ giả vong. Tuy nhiên sự thất bại của các quốc gia Đông phương về các phương diện chính trị, xă hội và kinh tế từ mấy thế kỷ qua thuộc trách nhiệm của những người cầm quyền chíùnh trị, xă hội và văn hóa Đông phương. Đâu là căn nguyên của sự thất bại này? Các nhà hiền triết Đông phương cho rằng thời đổi mà pháp không đổi th́ loạn, cho nên thánh nhân trị dân tùy thời mà đổi pháp. Dù các quốc gia Đông phương đều có gia quy và quốc pháp và có nghiêm đường và công đường – nhưng Quản Tử chủ trương: “Tôn vua lên, hạ quan xuống, lấy cái uy thế mà thắng lướt”. Thế là đặt vua lên trên luật pháp để mở đường cho hai ngàn (2,000) năm chuyên chế! Sau đó th́ mở màn cho thực dân và cộng sản tràn vào để đẩy xă hội con người Đông phương quằn quại trong đau khổ. Tất cả thực dân Anh - Pháp - Bỉ -Tây Ban Nha – Bồ Đào Nha v.v. .. đều tự hào về văn minh Thiên Chúa Giáo, nhưng tất cả đều xé bỏ Giao Ước giữa Thiên Chúa và các quốc gia của họ. Họ cho các ḍng đạo lư của Đông phương là mê tín dị đoan và t́m mọi cách để xóa bỏ và phỉ báng. Họ chẳng Hướng Thuợng và lại càng chẳng Hướng Tha. Chỉ có quyền lợi! Khi làn sóng cộng sản vô thần tràn vào th́ tôn giáo và đạo lư là những “kẻ thù giai cấp” của họ. V́ thế mà niềm tin tôn giáo và niềm tin đạo lư hướng thượng và hướng tha cứ mờ dần làm cho lương tâm con người và đời sống xă hội tăm tối và đau khổ không bút nào tả siết. Quan niệm muôn đời của Đông phương là dùng vơ lực mà thu phục người là bá đạo, dùng đức độ mà thu phục người là vương đạo. Trong thiên Lễ Vận có viết: Khi đạo lớn được thi hành th́ thiên hạ là của chung mọi nhà. Tôn kính người hiền, trọng dụng người tài giỏi, đưa bậc anh tuấn, hào kiệt lên chức vụ xứng đáng. Đó là chủ trương của vương đạo.

Ngày nay tinh thần pháp trị của Tây phương có khác chi quan niệm của Hàn Phi Tử: “Quần Thần, thượng hạ, quư tiện giai ṭng pháp” th́ xă hội có kỷ cương trật tự. Nhưng Khổng Phu Tử cho rằng, từ vua quan đến thứ dân nhất nhất phải lấy việc tu thân làm gốc. Riêng Mạnh Tử th́ quan niệm rằng, chỉ có đức nhân không đủ để trị. Chỉ có luật pháp tự nó cũng không thể thi hành được. Và v́ thế Tuân Tử mới đưa đến chữ dung ḥa: nếu có lễ cao và luật pháp lương hảo th́ nước trước có phéùp tắc vững bền, chuộng người hiền đức, dùng người có tài năng th́ dân biết khuôn phép. Bàn căi công khai và kiểm soát cẩn thận th́ dân c̣n đâu ngờ vực (Lương Kim Định, Cửa Khổng, trg 67). Nhưng khốn thay, nhân trị và lễ trị, v́ thiếu luật pháp lương hảo nên xă hội có đạo lư vi diệu mà những người cai trị thường bất nhân, coi con người như tôi mọi và cỏ rác làm sao nước yên được!. Đạo lư Hướng Thượng có thể có, những đạo lư Hướng Tha của các nhà cai trị th́ hiếm vô cùng. Đôi khi xă hội may mắn có một vài bậc minh quân, nhưng khi nằm xuống th́ toàn dân lại bơ vơ khốn khổ từ ngàn năm này qua ngàn năm khác.

EXODUS THỨ BA TRÊN ĐƯỜNG T̀M KIẾM GIÁ TRỊ TIẾN HÓA CỦA LỊCH SỬ NHÂN LOẠI

Ngày nay (tháng 10 – 2004) khối người vượt biển t́m tự do và lẽ sống từ 30–4-1975 hẳn đă rút tỉa được bao nhiêu giá trị cao quư trong các nền văn minh của các quốc gia Tây phương, nhất là tại Hoa Kỳ. Trong lúc ấy, bao nhiêu triệu đồng bào ruột thịt của chúng ta vẫn không có tự do. Tôn giáo vẫn bị đàn áp thô bạo. Quyền được sống, những quyền tự nhiên và quyền đi t́m kiếm hạnh phúc của những con người vẫn bị tước đoạt và chà đạp bởi những kẻ vô thần, độc tài đầy quyền lực của mũi súng. Tự do và hạnh phúc của một dân tộc không thể van xin mà có. Tự do và hạnh phúc của quốc gia cũng không thể thiếu niềm tin mănh liệt của tôn giáo và đạo lư trong đời sống xă hội của con người. Chà đạp lên đạo lư và đàn áp tôn giáo là một đường lối cai trị tự sát - bởi v́ từ một quốc gia cường thịnh và giàu có bậc nhất trên thế giới là Hoa Kỳ, Leroy Curry đă nói: “Tôi tán đồng và cổ súy cho việc tách tôn giáo ra khỏi chính trị (separation of church and state), nhưng tôn giáo và chính trị bước đi, không phải tay trong tay, mà bước song hành bên nhau. Chúng ta có thể tách tôn giáo ra khỏi chính trị, nhưng tôn giáo ly cách với đời sống quốc gia th́ quốc gia sẽ rơi vào thảm họa” V́ thế không có mọi thứ tự do... th́ không bao giờ và sẽ không bao giờ có phát triển con người và phát triển Đất Nước được. Đó là một đ̣i hỏi tất yếu của đạo lư, tôn giáo và luật pháp quốc gia. Và tự do cho con người và cho quốc gia xuất phát từ nguyên tắc tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ của Khổng Phu Tử, v́ thế tự do trong khuôn khổ của đạo lư và trong khuôn khổ của dân chủ pháp trị là giá trị đích thực của tự do. Sự cường thịnh lừng lẫy của Hoa kỳ xuất phát từ nguyên tắc nền tảng ấy. Trong các quốc gia thuộc nền văn minh Thiên Chúa Giáo, Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên đă hoàn tất được một phần lớn Giao Ước giữa Con Người và Thiên Chúa. Vậy mà Leroy Curry vẫn nói: “Đây là những trận chiến c̣n đang dang dở để xây dựng quốc gia (unfinished battles)”

Tại sao lịch sử bao ngàn năm của nhân loại chỉ thấy máu, nước mắt và sự chết – bời v́ các quốc gia đă không được Hướng Thượng và Hướng Tha để chu toàn đạo lư với Thiên Chúa, hay Đấng tạo Hóa và không chu toàn được đạo lư làm người. Ngày nay muốn thay đổi những trang sử đen tối đó, đă đến lúc các quốc gia và các chủng tộc phải biết hướng thượng và hướng tha. Hướng Thượng để kính sợ luật của Tạo Hóa và đem luật của Tạo Hóa để xây dựng nền móng trật tự cho quốc gia. Hướng Tha là đem quyền được sống, những quyền tự nhiên, và quyền t́m kiếm hạnh phúc trả lại cho con người. Nếu luật Tạo Hóa được tôn trọng, đó là tất cả quyền thiêng liêng của con người th́ lănh đạo các quốc gia không được tước đoạt những quyền đó của mọi công dân. Hành động tước đoạt đó là hành động vô luân trong đời sống của một quốc gia (immoral action).

Nói tóm lại, v́ nắm được những giá trị tiến hóa của gần 3,000 năm lịch sử Hoa Kỳ đă đưa chuyến Exodus của Mayflower (1607) thành nền móng xây dựng tự do, dân chủ và nhân quyền ở Tân Thế Giới. Đó là tinh túy của văn minh Tây phương và trên bi kịch hăi hùng của dân tộc Việt, đoàn người vượt biển ngày nào đă thấy rằng, trên chóp đỉnh của đạo lư phải Hướng Thượng và Hướng Tha, Đông phương và Tây phương đă gặp nhau như các luồng ánh sáng gặp nhau. Tất cả Tân Ước và Cựu Ước đều dạy con người hướng thượng và hướng tha. Và tất cả các ḍng đạo lư của Đông phương là Lăo – Phật – Khổng cũng đều nhắc nhở con người phải hướùng thượng và hướng tha. Chính Lư Đông A và Việt Đạo cũng đă liên tiếp đề cập đến nguyên tắc tối thượng đó của đời sống cá thể, gia đ́nh và quốc gia. Ngày nay sau gần 30 năm sống kiếp lưu đày, khối người Việt vượt biển tỵ nạn cộng sản ngày nào bỗng nhận ra HÀNH TR̀NH T̀M TỰ DO của họ, ngoài việc di t́m tự do và đất sống, phần đông vẫn hướng về quê hương và đau đớn thấy rằng 80 triệu con người Việt Nam tại quê nhà đang quằn quại đau khổ v́ nhân quyền bị nhà nước độc tài vô sản chà đạp và tôn giáo bị đàn áp và bách hại mạnh mẽ. Xưa khát vọng tự do của người Do Thái đă vang lên trong sa mạc 40 năm. Và khát vọng tự do tôn giáo và lư tưởng của đời sống tự do của Pilgrim và Puritan cũng vang lên trong rừng vắng với Mayflower Compact. C̣n chúng ta - đoàn người Thuyền Nhân (Boat People) thuở nào, khát vọng tự do của chúng ta cũng đă vang lên khắp năm châu bốn biển từ gần 30 năm qua. Giờ đây là lúc tất cả chúng ta nương theo ánh sáng chỉ đường của các nền văn minh chân chính nhất của nhân loại để xóa tan bóng tối âm u của những trang sử buồn bă của giống ṇi để cất lên tiếng nói tự do dân chủ và nhân quyền, với những kẻ đang cầm quyền quốc gia đau khổ ấy. Hăy trả những ǵ của Cesar về cho Cesar. Hăy trả những ǵ của Thiên Chúa về Cao Triều và hăy trả lại quyền sống, quyền tự nhiên và quyền t́m kiếm tự do và hạnh phúc cho 80 triệu người Việt Nam tại quốc nội trước khi quá trễ.

Nguyễn Anh Tuấn Oklahoma, ngày 30- 9- 2004.

Home

-- (|||||A|||@LLL.com), November 12, 2004.


Moderation questions? read the FAQ