Dioxin: Báo cáo Hatfield

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

VNNB, 18/9/04

Mai Thanh Truyết

Vấn đề dioxin-chất da cam đă được dư luận thế giới và Hoa Kỳ lưu ư ngay từ sau khi có những yêu cầu đ̣i hỏi chính phu? Mỹ phải bồi thường và cung cấp bảo hiểm y tế cho các cựu quân nhân Mỹ từng tham chiến tại VN. Về phía VN, sự việc cũng đă âm ỉ từ sau chiến tranh cho đến cuối thập niên 80. Kể từ thập niên 90 trở đi, những báo cáo sơ bộ, các cuộc phỏng vấn từ cấp địa phương bắt đầu xuất hiện trên báo chí VN. Mọi trăn trở thao thức thỉnh thoảng được đưa lên mặt báo qua các bài phóng sự của cá nhân hoặc chính quyền địa phương và trung ương. Nhưng, từ khi Hội Nạn Nhân Chất Da cam/Dioxin VN kiện 37 công ty hóa chất Hoa Kỳ vào ngày 10-01-04, hiện tượng "trăm hoa đua nở" về vấn đề dioxin-chất da cam lại nở rộ khắp nơi. Báo chí trên thế giới, các hăng thông tấn ... lần lượt chuyển những tin nóng sốt từ VN nhất là những khám phá mới nhất ở các địa phương về nguy cơ bị nhiễm độc dioxin. Đâu đâu cũng nghe nói đến dioxin trong khoảng thời gian gần đây. Riêng tại VN, hầu hết các báo chí đều đăng tải những suy diễn cùng b́nh luận dựa theo dữ kiện được cung cấp qua những "chuyện kể đường đời" để khơi động đồng loạt "nỗi đau dioxin ở VN".

Bài viết nầy có mục đích làm sáng tỏ hơn một số nghi vấn và mâu thuẫn trong báo cáo Hatfield và Ủy ban 10 - 80 của VN v́ đây là một tài liệu đă được phía VN sử dụng trong hồ sơ vụ kiện tại ṭa án Brooklyn (New York).

Bài viết nầy dựa trên các tài liệu trích từ hai báo cáo của Hatfield Consultants Ltd (West Vancouver, Canada) và đối tác VN là Ủy ban 10-80 (thành lập vào tháng 10-1980 tại Hà Nội). Công ty Hatfield được cơ quan Canadian International Development Agency tài trợ. Báo cáo thứ nhất đúc kết các cuộc điều tra sơ khởi và thu thập dữ kiện từ năm 1994 - 1998. Báo cáo thứ hai công bố vào tháng 4-2000 dưới tiêu đề " Development of Impact Mitigation Strategies Related to the Use of Agent Orange Herbicide in the A Luoi Valley, Viet Nam". Cả hai báo cáo gồm trên 1,000 trang được in lại qua 2 CĐRom mua từ Cty Hatfield.

Mục tiêu của bài viết là cố gắng làm sáng tỏ hay phơi biện những nghi vấn cùng các luận cứ không đủ sức thuyết phục, hoặc thiếu cơ sở khoa học, hoặc vô t́nh hay cố ư đánh lạc hướng dư luận... của các kết luận và đề nghị của Cty Hatfield và Ủy ban 10-80.

Cty Hatfield đă chọn thung lũng A Lưới, cách Huế 65 Km về hướng đông để làm địa điểm nghiên cứu. A Lưới đă từng nổi tiếng một thời dưới danh hiệu Ngọn đồi 937 (Hill 937) hay Hamburger Hill. Căn cứ nầy đă bị quân đội Hoa Kỳ bỏ hoang vào tháng 5/1969. A So hay A Shau hay Đồng Sơn (tên đặt sau 1975) là một căn cứ không quân nhỏ của quân đội Hoa Kỳ nằm phía nam của thung lũng,; căn cứ đă bị bỏ hoang từ 08-12-1965. Tại hai nơi nầy, chất khai quang màu da cam đă được phun xịt nhiều nhất trong suốt thời gian từ 1965 đến 1970. Có tất cả 224 phi vụ trên tổng số 606 phi vụ của vùng Thừa Thiên được rải xuống A Lưới trong khoảng thời gian nầy.

Các mẫu đất, máu, sữa mẹ, và thực động vật lấy từ thung lũng tương đối không nhiều do chi phí phân tích quá cao (khoảng USD 1,000/mẫu). Có 28 mẫu được phân tích trong năm 1996 cho vùng A Lưới, và 22 mẫu cho A So trong năm 1997. Các mẫu được phân tích tại AXYS Analytical Services Ltd, Canada và đây là một trong 26 pḥng thí nghiệm được cơ quan Y tế thế giới (WHO) chọn lựa để phân tích.

Sau đây là kết quả các cuộc phân tích trích ra từ báo cáo trên:

Đất

A So:- (sâu từ 0 - 10 cm) 110 ppt (một phần ức - 10 -12 ) 1/1996; 898 ppt (11/97); 220 (3/99)

- (sâu từ 10 - 30 cm) 32 ppt (1996);

Ngoài A So: từ ND* - 1,7 ppt (1996) (ND = not detected);

Đáy hồ A So: 6,9 ppt (1996), 1,8 - 8,5 ppt (1997), 6,9 (1998);

A Lưới: 1,1 - 0,9 ppt (1997);

Đáy sông A Sap, A Lưới: 0,8 - 1,2 ppt (1996);

Đáy hồ A Lưới: 5,3 ppt (1997);

Rễ khoai ḿ: ND (1996), ND (1997).

Cá chép

Mô mở/ A So: 51 ppt (1/96), 6,1 - 34 ppt (11/97), 1,9 - 21 ppt (1999);

Gan/A So: 2,4 ppt (1/96), 1,1 ppt (1999);

Thịt/A So: 0,4 ppt (1999);

Gan/A Lưới: 1,0 ppt (1999).

Gia súc

Gan vịt/A So: 1,4 ppt (1/96);

Gan vịt/A Lưới: ND (1996);

Mở vịt/A So: 6,1 ppt (1997);

Gan heo/A So: ND (1996), ND (1999).

Máu/ A So

Đàn ông: - (lớn hơn 25 tuổi) 31 ppt (1997), 41 ppt (1999);

- ( từ 12 - 25 tuổi) 21 ppt (1997), 31 ppt (1999);

Đàn bà : - (lớn hơn 25 tuổi) 25 ppt (1997), 16 ppt (1999);

-(từ 12 - 25 tuổi) 12 ppt (1996), 14 ppt (1999);

Sữa mẹ/ A So: 1,4 - 16 ppt (1999).

Các kết luận sau đây được ghi nhận trong báo cáo 1998:

-Dây chuyền thực phẩm có chỉ dấu nhiễm độc dioxin trong đất, đáy hồ, cá, vịt, và người ở gần căn cứ A Sọ

-Ở những vùng khác của thung lũng A Lưới lượng dioxin ở dưới mức tác hại căn cứ theo định mức Tây phương.

-Lượng dioxin tương đối cao được t́m thấy trong máu cư dân sống quanh căn cứ A Sọ Trẻ em sinh sản sau chiến tranh cũng có lượng dioxin cao trong máu chứng tỏ rằng dioxin đă xâm nhập vào dây chuyền thực phẩm.

-Số lượng phân tích cho thấy có sự liên hệ trực tiếp giữa chất màu da cam và môi trường có ảnh hưởng lên sức khỏe con người. Tuy nhiên báo cáo cũng đề nghị cần phải có những khảo sát sâu rộng hơn nữa cùng với sự tham gia của các tổ chức đa quốc gia gồm những chuyên viên chuyên môn về dioxin để thẩm định lại những mối liên hệ trên.

Nh́n chung các kết luận và đề nghị trong báo cáo sơ khởi nầy tương đối khách quan và trung thực dựa theo các số liệu thu thập được. Qua đến báo cáo 4-2000, và cũng là báo cáo tổng kết, sự việc hoàn toàn trái ngược hẳn. Cáo số liệu trong báo cáo trước đă được sử dụng lại cộng thêm một số kết quả phân tích mới trong năm 1997, 1998, và 1999.

Về Đất. Trước hết, theo kết luận của Hatfield, căn cứ theo kết quả thu thập năm 1996, 1997 th́ vùng đất đă bị ô nhiễm dioxin phải được tuyên bố là "vùng ô nhiễm" (contaminated site - trang 2 trong báo cáo) căn cứ theo quy định Tây phương (western juridictions). Theo luật Canada, đất nông nghiệp và đất xây cất nhà ở (residential) th́ tiêu chuẩn dioxin có thể ảnh hưởng lên sức khỏe người dân không được vượt quá 350 ppt. Trong lúc đó, US EPA đă thẩm định và tái thẩm định liên tục tác hại của dioxin để định mức tiêu chuẩn chấp nhận được hơn 10 năm nay mà vẫn chưa có kết luận chắc chắn, và định mức chấp nhận sự hiện diện của dioxins trong đất hiện tại là 1.000 ppb (phần tỷ - 10 -9 ). Đối với những chất dioxin tương đương (dioxin-like compounds) như các hợp chất hữu cơ có chứa chlor, có trong hầu hết các thuốc diệt cỏ dại hiện đang được sử dụng bừa băi ở VN, định mức của US EPA c̣n thấp hơn so với dioxin, như ĐE, D, ĐT là 87 ppb, Dieldrin, Endrin, 130 ppb, Aldrin, Lindane, 86 ppb, BHC, 66 ppb. Đây là định mức tối đa để xử lư các chất phế thải rắn độc hại thuộc nhóm loại F039 của US EPA. Nếu chất phế thải hay đất được phân tích và cho kết quả dưới các định mức trên th́ được di chuyển vào các băi rác an toàn không cần qua khâu xử lư (Code of Federal Regulations - CFR EPA 40 Parts 260).

Về máu người. Kết quả phân tích và suy diễn hàm lượng dioxin trong máu của cư dân sống tại A So đă được tŕnh bày trên đây cho thấy có hiện tượng không b́nh thường. Để có khái niệm về hàm lượng dioxin trong máu người dân sống ở các nước Tây phương, các số liệu sau cho thấy lượng dioxin trung b́nh trong máu người dân sống chung quanh các cơ sở hay nhà máy sản xuất có nguy cơ phóng thích ra dioxin trong quy tŕnh sản xuất: -Hoa Kỳ (Dân chúng sống chung quanh nhà máy giấy): 8,6 ppt dioxin;

-Canada (Nhà máy chế biến tôm cá biển): 5,7 ppt;

-Hoa Kỳ, Âu châu (Các nhà hóa học phân tích): 8,6 ppt;

-Nga (Nhân viên văn pḥng ở nhà máy hóa chất nông nghiệp): 23,5 ppt;

-Đức (nhà máy sản xuất 2,4,5-T): 331,8 ppt và 125,6 ppt ở hai thành phố sản xuất khác nhau;

-Nga (Nhà máy sản xuất 2,4,5-T) 168 ppt (đàn ông), 202 ppt (đàn bà).

Cũng xin nói thêm là 2,4,5-T (tên thương mại là Silvex) đă bị cấm sử dụng và sản xuất từ năm 1985 tại Hoa Kỳ.

Đối với tai nạn PCBs ở Bỉ năm 1999, Mattias Uberg đă đo đạc được nồng độ dioxin trong mô mỡ của gà từ 500 - 1000 pg/g (lượng dioxin b́nh thường trong mỡ của gà là 0,6 pg/g) (pg/g = ppt).

Về tai nạn tại Seveso ở Ư, Micheal Petty tại Dioxin Conference (7/1/1999) công bố rằng thú vật sống chung quanh nhà máy bị chết sau vài ngày đến vài tuần và không có người chết nào cả ngoại trừ ông Giám đốc nhà máy bi. Vệ binh Đỏ (Red Brigades) giết! Và thống kê từ năm 1976 đến 1996 cho thấy tỷ lệ về t́nh trạng hư thai, thai nhi thiếu cân lượng, hay khuyết tật bẩm sinh (congenital malformations) không thay đổi nơi vùng xảy ra tai nạn ước tính khoảng 30 Kg dioxin thất thoát ra ngoài.

Tiến sĩ Bruce Ames, nhà độc tố học nổi tiếng trên thế giới nhận định và so sánh rằng, lượng dioxin mà con người hấp thụ trong thực phẩm hàng ngày khoảng 1pg/Kg/ngày sẽ làm tăng xác suất ung thư thấp hơn việc uống một lon bia/ngày trong 125 năm, và khả năng sinh con dị h́nh dị dạng thấp hơn việc uống bia trong 3000 năm!

Trong lúc đó, Greenpeace International công bố ngày 21-04-1997 rằng, ba phần tư lănh thô? Cộng ḥa Liên bang Nga bị ô nhiễm dioxin. Lư do chính yếu là do việc sản xuất PVC (polyvinylchloride) trong thời gian từ thời Staline đến ngày nay. Với 1 kg PVC được thiêu hủy sẽ sinh ra một lượng dioxin đủ để giết sạch 50.000 chuột! Tại thành phố Dzerzhinsk, cách Moscova 320 Km, lượng dioxin cao gấp 50 lần định mức b́nh thường (ppt). T́nh trạng tương tự như ở St Petersburg, Povolvic và một phần Urals.

Ở những nơi có hàm lượng dioxin cao trong máu như một vài vùng ở Đức, Nga sô, măi cho đến nay, vẫn chưa thấy có báo cáo chính thức nào về các hiện tượng dị h́nh dị dạng cũng như các chứng ung thư xảy ra cho cư dân sống chung quanh vùng bị ô nhiễm.

Về sữa mẹ. Báo cáo cung cấp lượng dioxin t́m thấy trong sữa mẹ ở vùng A So trong năm 1999 thay đổi từ 1,9 đến 19 ppt cho 16 mẫu thử nghiệm (trung b́nh là 14.6 ppt). Trong lúc đó, ở các quốc gia Tây phương lượng dioxin trung b́nh trong sữa mẹ được ghi nhận như sau: Đức (526 mẫu thử nghiệm) 3,2 ppt (số liệu của Cty Hatfield); Kazakhstan (vùng nông thôn ở Nga, 8 mẫu) 46,5 ppt (số liệu của Hatfield) ; Los Angeles (21 mẫu) 3,1 ppt; Birmingham (Anh quốc, 1 mẫu) 6,5 ppt; Thụy điển (10 mẫu) 3,3 ppt; Ḥa Lan (nông thôn, 1 mẫu) 5,2 ppt; và Bỉ (vùng kỹ nghệ, 1 mẫu) 10,2 ppt. Theo báo cáo nghiên cứu của Kim Hooper et al. (Environmental Health Perspectives Volume 107, Number 6, June/1999) th́ mức độ ô nhiễm ở vùng nông nghiệp phía Nam tỉnh Kazakhstan (Nga) rất cao. Lượng dioxin trong sữa mẹ đă lên đến 208pg/g (hay ppt) (phần ức) qua 64 mẫu thử nghiệm, vùng nầy là một vùng trồng bông vải và đă sử dụng thuốc diệt cỏ dại có chứa TCĐ. Người viết đă trực tiếp hỏi Tiến sĩ Hooper về t́nh trạng sức khỏe ở vùng nầy nhưng được cho biết là không có báo cáo về vấn đề nầy.

Sau tai nạn PCBs tại Bỉ, lượng dioxin trong sữa mẹ tăng gấp 10 lần so với sữa ḅ. Tuy nhiên, các nhóm trẻ em từ 3 tháng , 7 tháng, và 18 tháng được Ferdinand Ọ Engelbeen so sánh và theo dơi bằng cách cho uống sữa mẹ và sữa ḅ trong một thời gian. Nhưng cuối cùng, t́nh trạng sức khỏe giữa các nhóm kể trên không có ǵ thay đổi.

Karl Heinz Wilm (OurFood (c) 1998 - 2000) đă làm thống kê và dựa theo báo cáo của WHO th́ lượng dioxin trung b́nh trong sữa mẹ của người Đức 29,6 ppt vào năm 1985. Từ sau năm nầy, chính phu? Đức phát động chương tŕnh khuyến cáo các bà mẹ bớt ăn thịt gia súc có nhiều mỡ v́ dioxin đă tích tụ nhiều nhất nơi đây. Và kết quả là cho đến năm 1994, lượng dioxin trung b́nh trong sữa mẹ đă giảm xuống c̣n 15,9 ppt. Nếu so với lượng dioxin đo đạc được của Cty Hatfield th́ các bà me. Đức cưu mang trong người lượng dioxin nhiều hơn so với các bà me. A So!!! Và thế hệ trẻ của Đức quốc vẫn c̣n khỏe mạnh và chưa có báo hiệu bị nhiễm độc dioxin và phải chịu nhiều hậu quả như ở A Sọ

Tóm lại, các số liệu và dữ kiện trên đây là những bằng cớ xác định sự hiện diện của dioxin trong máu và sữa mẹ của cư dân sống ở vùng A So, nơi bị phun xịt rất nhiều chất da cam, và những nơi trên thế giới đă xảy ra tai nạn hay nhiễm độc dioxins. Kết quả so sánh cho thấy nồng độ trong máu giữa các nơi kể trên cũng không sai biệt bao nhiêu, và tại những nơi nầy cũng chưa thấy có chỉ dấu bất thường nào cả.

B́nh luận về báo cáo 4-2000

Ngay trong phần mở đầu của phần kết luận trong báo cáo 4-2000, Cty Hatfield đă "khẳng định" như sau: "Cho đến ngày nay, với mức độ của dioxin hiện diện trong môi trường và trong máu cư dân sống quanh thung lũng A Lưới và nếu trường hợp trên xảy ra ở những nơi như Hoa kỳ, Canada, hay Âu châu, th́ một kế hoạch bảo vệ sức khỏe người dân sẽ được khai triển tức khắc để hạn chế hay giải quyết vấn đề". Theo sự ghi nhận của người viết, tại Hoa Kỳ, vấn đề giải quyết và xử lư ô nhiễm dioxin chỉ xảy ra trong một trường hợp duy nhất ở thị trấn Times Beach (Missouri), và quyết định của chính quyền sở tại là phải di chuyển 1,400 cư dân trong thành phố nầy và tiêu hủy một số lượng lớn xà bần đă bị ô nhiễm. Cũng tại Hoa Kỳ, có rất nhiều nhà máy sản xuất giấy tập trung ở tiểu bang Wisconsin, là nơi sản xuất giấy và các sản phẩm về giấy lớn nhất thế giới; các cơ sở nầy thải hồi vô số chất phế thải rắn và lỏng trong quy tŕnh sản xuất có chứa dioxin ... nhưng cho đến nay vẫn chưa có báo cáo về ảnh hưởng của hóa chất trên lên cư dân hay công nhân làm việc trong vùng.

Trong phần kết luận về đất, Cty Hatfield lại "khẳng định" thêm: "Phần lớn đất ô nhiễm đă liên đới một cách rơ ràng (clearly) với 2,3,7,8-T4CĐ chất da cam chứ không phải phát xuất từ các nguồn kỹ nghệ nào khác của dioxin". Nói như thế, tức là "khẳng định" một cách vô căn cứ, hoàn toàn không dựa theo một căn bản khoa học nào cả. Trong lúc đó các thuốc diệt cỏ dại, thuốc trừ sâu rầy đan cử ở phần trên đă được sử dụng hàng loạt trong canh tác kể từ sau chiến tranh mà nồng độ t́m thấy cao hơn nhiều so với nồng độ dioxin hiện diện, và các thuốc nầy cũng là những hóa chất nầy được xem như là hợp chất tương đương dioxin. Hậu quả và mức tác hại của những chất trên đă được chứng minh và xác định một cách "rơ ràng" ảnh hưởng lên sức khỏe con người như: ung thư, dị h́nh dị dạng nơi trẻ sơ sinh ... giống như đă được gán cho dioxin.

Thêm nữa, hàm lượng dioxin được t́m thấy ở thung lũng A Lưới như Hatfield đă công bố vẫn c̣n thấp so với nhiều nơi trên thế giới, và tại những nơi nầy vẫn chưa hề có những báo cáo để đánh động dư luận và lương tâm thế giới như ở A Lưới. Theo ước tính của Arthur Westing (Nature, London, 298, 114, 8-7-1982) trong báo cáo nơi Đại hội Quốc tế về Thuốc Khai Quang và Diệt cỏ tại Sàigon tháng 1-1983, trong số 57 triệu lít thuốc khai quang xịt xuống miền Nam VN trên một diện tích độ 38.000 Km2, tổng cộng có khoảng độ 170 Kg Dioxin . Và cũng theo báo cáo trên, sự bán hủy (half life) của dioxin là mười năm, thử hỏi, sau hơn 30 năm, những vết tích của dioxin có c̣n bao nhiêu nữa không?

Về máu, Cty Hatfield lại "khẳng định": "Các thử nghiệm năm 1999 xác nhận mức độ cao của dioxin-chất da cam (AO dioxin) trong máu cư dân A So so với kết quả năm 1997." Kết luận nầy lại mâu thuẫn với những số liệu đo đạc và "lời b́nh" (comments) của tác giả. Đối với đàn ông, nồng độ trong máu tăng từ 31 ppt (1997) lên 41 ppt (1999), và đàn bà giảm từ 25 ppt (1997) xuống c̣n 16 ppt (1999). Các số liệu trên đă nói lên tính cách suy luận có "định kiến sẵn" của báo cáo rồi. Và với kết quả trên, làm sao giải thích được dioxin đă xâm nhập vào dây chuyền thực phẩm qua gia súc và tôm cá ... Hơn nữa, ở một phần khác báo cáo giải thích rằng, đàn ông ở A Lưới v́ thường xuyên đi làm việc ở xa thung lũng, rất ít sử dụng lương thực có được ở A Lưới ... cho nên ít bị ảnh hưởng của dioxin qua thức ăn hơn. Nếu nhận định như thế th́ làm sao giải thích được lượng dioxin trong máu cao nơi đàn ông? Và nếu kết quả đo đạc là một xác tín, có phải chăng các nam nhân nầy đă bị nhiễm do các hóa chất diệt cỏ dại, thuốc diệt trùng trong khi lao động ngoài đồng?

Ở phần kết luận về thuốc diệt cỏ dại, báo cáo ghi nhận:" Việc sử dụng các thuốc diệt cỏ dại thực hiện ở mức độ thấp ở thung lũng, do đó hàm lượng các chất trên c̣n ở mức độ thấp trong ḷng đất và sữa mẹ". Và trong một bảng ghi kết quả, tổng lượng ĐT, ĐE, và D trong sữa mẹ được ghi nhận là 10.611 ppt trong năm 1999!?

Tại sao Cty Hatfield và Ủy ban 10-80 lại chọn thung lũng A Lưới, một nơi hoang dă và rất khó khăn đi lại làm điểm thí nghiệm? Có thể có nhiều lư do trong đó:

- A Lưới đă nổi danh dưới tên Hamburger Hill là nơi quân đội Mỹ với căn cứ không quân A So và có kho chứa chất màu da cam;

- Hoặc dựa theo báo cáo của Hội Cựu quân nhân Hoa Kỳ trong việc đ̣i bồi thường về những hậu quả mà họ và con cháu mắc phải;

- Hoặc đây là một điểm nóng có thể đạt được dương tính ngay trong khi phân tích mẫu.

Tại sao phải đợi măi đến tháng 11-1996 mới bắt đầu lấy mẫu trong khi Ủy ban 10-80 đă được thành lập từ tháng 10-1980?

- Có lẽ theo ước tính của Ủy ban, thời điểm thuận lợi cho việc "la làng" không thích hợp với thời gian trước đây, và năm 1996 là thời gian thuận lợi nhất ngay sau khi có được bang giao chính thức với Hoa kỳ;

- Hoặc v́ chưa kết hợp với một đối tác đồng thuận như Cty Hatfield trước đó, cũng như chưa nhận được nguồn tài trợ trong thời gian đầu. Cuối cùng, sự mâu thuẫn trong số liệu về các mẫu thử nghiệm làm cho báo cáo Hatfield có thêm nhiều nghi vấn! Trong phần đầu của báo cáo có ghi tổng số mẫu đă được phân tích là 50 mẫu v́ chi phí phân tích quá cao. Nhưng trong Figure 2.12 th́ tổng số mẫu tính riêng cho việc phân tích máu mà thôi (không kể việc phân tích đất, cây cối và súc vật) đă lên đến 790 mẫu! Điều nầy cho thấy tính tiền hậu bất nhất và thiếu tính trong sáng trong nghiên cứu khoa học.

Như đă tŕnh bày ở phần trên, chiến dịch hâm nóng lại vấn đề chất da cam dioxin đă nở rộ từ hơn sáu tháng trở lại đây trên truyền thông, qua báo chí khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở VN. Hầu hết các các dữ kiện trong bài viết nầy đều căn cứ theo văn bản của báo cáo 4-2000 của Cty Hatfield và Ủy ban 10-80.

Những lời b́nh luận ở phần trên dựa trên căn bản của các số liệu công bố trong báo cáo, và được xem như là những "dữ kiện thật và đúng", mặc dù dựa theo kinh nghiệm chuyên môn, vấn đề đo đạc dioxin vẫn c̣n là một vấn đề cần phải thẩm định lại nhiều hơn nữa.

Từ các phân tích ở phần trên, Cty Hatfield và Ủy ban 10-80 đă vô t́nh hay cố ư tạo ra những báo cáo không trung thực, và đôi khi các kết quả và kết luận lại mâu thuẫn với những khám phá đo đạc của chính công ty ấy. Cty Hatfield đă thẩm định và suy diễn một cách có dụng ư từ những "con số phân tích" để đưa ra những kết luận có thể làm sai lệch sự thật.

Làm như thế, Hatfield đă đánh lạc hướng dư luận quần chúng trên thế giới, nhất là quần chúng VN có thể hiểu một cách sai lạc về vấn đề chất da cam - dioxin do quân đội Hoa Kỳ phun xịt xuống Miền Nam VN từ vĩ tuyến 17 trở vào trong giai đoạn chiến tranh vừa quạ

Làm như thế, Cty Hatfield có dụng tâm ǵ khác hơn là hy vọng có được một hợp đồng béo bở cho việc xử lư vùng bị ô nhiễm?

Làm như thế, VN hy vọng được ǵ ngoài việc đánh động lương tâm thế giới, mong t́m được số tiền bồi thường khổng lồ từ phía chính phu? Hoa Kỳ, mong được thêm tài trợ từ các cơ quan từ thiện trên thế giới, hay thầm kín hơn nữa, mong giải thích cho đồng bào cùng khổ ở VN biết được rằng v́ hậu quả chiến tranh triền miên mà không thể phát triển đất nước như mong muốn để cho dân giàu nước mạnh được?! Nên nhớ, hiện tại các công ty hóa chất Hoa Kỳ chấp nhận tài trợ chi phí y tế cho cựu quân nhân và con cháu, không phải v́ công nhận hậu quả của dioxin, nhưng là một hành động thuần túy nhân đạo và chính trị để trấn an dư luận của Hội Cựu Chiến binh Mỹ.

Vấn đề dioxin hiện diện trong chất màu da cam là một thực tế không cần phải bàn căi thêm nữa. Nhưng vấn đề ở đây là làm thế nào xác định được một cách chính xác và có căn bản về mức độ nhiễm độc của dioxin lên con người. Hậu quả của dioxin phải được chứng minh bằng khoa học và thử nghiệm đứng đắn. Những nơi có đông dân cư và là những điểm nóng trong thời gian quân đội Mỹ hiện diện ở VN như Biên Ḥa, Tân Sơn Nhứt, Đà Nẵng ... cần phải được thâm cứu hơn nữa để xác định hàm lượng của dioxin nếu có thể có, ngơ hầu t́m phương án chữa trị cho những nạn nhân vô t́nh bị vướng phải.

Làm như thế, may ra mới có được sự tiếp tay của thế giới v́ nhân đạo.

Quả thật chúng tôi cố gắng động năo để có thể hấp thụ tin tức từ phía VN là chất da cam đă xâm nhập vào khắp mọi miền đất nước nhiều nhất là ở các t́nh miền Bắc, đến tận cả Thái Nguyên và Phú Thọ là những nơi hoàn toàn không bị một cuộc phun xịt nào cả. Và cho đến nay, câu hỏi trên vẫn chưa có câu trả lời.

West Covina 8/04

-- (hytran@yahoo.com), September 18, 2004


Moderation questions? read the FAQ